Biên niên sử Bàn phím cơ

Biên niên sử Bàn phím cơ

• Cập nhật: • Tác giả: user

Thế giới có hàng triệu phát minh lớn nhỏ khác nhau, có cái ra đời như là sự hỗ trợ cho con người, nhưng cũng có những sự ra đời làm thay đổi toàn cục thế giới. Bàn phím máy tính có thể xếp vô hàng một trong những phát minh vĩ đại của con người, nhưng nó xuất hiện không tình cờ từ con số không như tiếng Eureka, mà đi lên từ những phát minh trước đó, rồi tiến dần từng bước từng bước cải tiến, song song là động lực từ sự bùng nổ của phát triển công nghệ. Trong thực tế bàn phím, công nghệ, máy tính, ba thứ này đã đi qua một chặng đường rất rất dài trước khi ra mắt công chúng dưới những hình thức tinh tế và gọn gàng nhất. Từ 1700 đã có những bằng phát minh related đến bàn phím, nhưng mãi đến 1870 thì các thiết bị này mới được giới thiệu ra thị trường. Và từ đó đến nay đã vượt qua biết bao nhiêu lần phủ định đế phát triển được đến những bàn phím hiện đại như chúng ta đang thấy ngày nay. Bài viết này tôi sẽ đưa anh em trở về những ngày đầu tiên của công nghệ máy gõ chữ, tiền thân của bàn phím hiện tại. Anh em sẽ thấy câu chuyện này có những khởi đầu thật ra không hề đơn giản và dễ dàng.

  1. Lịch sử việc gõ chữ và máy đánh chữ

Ông tổ bàn phím cơ máy đánh chữ Remington
Máy đánh chữ Remington Đầu tiên chúng ta sẽ trở về nguồn gốc của cụm từ typing, khái niệm gõ chữ và những thiết bị gõ đầu tiên. Những chiếc máy đánh chữ đầu tiên có hình dạng như máy may đạp chân và không có gì ngạc nhiên khi biết thêm là Remmington, hãng phát minh ra máy đánh chữ đầu tiên cũng đồng thời là hãng sản xuất máy may vào thời điểm đó. Máy đánh chữ Remmington này được tạo ra bởi 3 người kỹ sư: Sholes, Glidden và Soule, với phiên bản đầu tay năm 1867 có luôn cả bàn đạp chân (pedal giống như pedal máy may). Ngược lại một chút về trước, trên thế giới đã từng tồn tại một bằng phát minh máy đánh chữ của Henry Mill (Anh). Rồi đến 1808, một máy đánh chữ khác lại được cấp bằng phát minh ở Ý thuộc về Pellegrino Turri với dự định ban đầu là dùng cho người mù gõ chữ. Rồi đến 1829, William Austin Burt cũng lại có thêm một bằng phát minh cho máy đánh chữ của mình với cách vận hành hơi khác một chút là dùng cách quay số để in ra các ký tự và cũng được tạo ra dành cho người mù. Từ 1829 đến 1870, có thêm một vài phát minh máy đánh chữ được ghi chép lại nhưng hầu như không có sản phẩm nào có giá trị thực tế về mặt thương mại hay được nhiều người biết đến và tiêu dùng.

Cột mốc ra đời

Cho tới khi Reverend Rasmus Malling-Hansen phát minh ra một kiểu máy đánh chữ dạng nửa hình cầu không giống bất kỳ thiết kế nào trước đây và đã ghi nhận là được dùng cho một số công ty và văn phòng tại Anh và Châu Âu. Chính Hansen Writing ball này là tiền đề vững chắc cho nghiên cứu tiếp theo của Sholes (một nhà phát minh), Glidden (một thợ máy) và Soule (một nhà in) để tạo ra máy gõ chữ hình dạng tương tự chiếc máy may mà chúng ta vừa nói ở trên. Đây được ghi chép là thiết bị gõ chữ hoàn thiện, thành phẩm dùng được đại chúng và đem ra bán trên thị trường chính thức vào 1867. Nhưng đáng tiếc là vì doanh số bán ra ì ạch so với công sức nghiên cứu và sản xuất quá cao, nên một thời gian ngắn sau đó Sholes và Glidden đã bán bằng sáng chế của mình cho Densmore với giá 12.000 USD. Hãng này sau đó đã tiếp tục nghiên cứu để cải tiến chiếc máy đánh chữ như máy may cồng kềnh này thành một phiên bản nhỏ gọn hơn, không còn bàn đạp chân, không còn chân đứng sắt cồng kềnh, tất cả thao tác được thực hiện trực tiếp trên các phím của máy, một mô hình có thể nói là khá giống với máy đánh chữ mà anh em biết đến hiện nay (mặc dù trên thực tế là nó cũng siêu nặng cho được làm hoàn toàn bằng kim loại).

Cuộc cách mạng máy đánh chữ

Bàn phím cơ trên IBM-Selectric Đến 1910, tất cả các máy đánh chữ có trên thị trường được đưa vào chuẩn hóa, có những điểm tương đồng nhất định và có cùng cơ cấu vận hành giữa các phiên bản hay giữa các hãng. Mọi thứ khá tĩnh lặng cho tới khi IBM Selectric vào cuộc năm 1961. Cải tiến đáng kể của IBM Selectric là ở thiết kế bên trong, các ký tự kim loại nằm trên một trái banh cuộn tròn, thay vì nằm thẳng, giúp cho tốc độ gõ máy tăng lên đáng kể và nhất là không còn hiện tượng kẹt ký tự khi gõ quá nhanh như máy đánh chữ phiên bản cũ trước đó. Dù vẫn còn rất nhiều hạn chế nhưng Selectric được xem là phiên bản máy đánh chữ tiên tiến, giúp IBM làm mưa làm gió một thời gian dài cho tới tận những năm 1980, khi công nghệ máy tính phát triển và máy đánh chữ đã dần rơi vào quên lãng (tuy vẫn còn sản xuất và được sử dụng đến tận ngày nay tại một số cơ sở chuyên về tài liệu pháp lý hành chính).

2. Ra đời và phát triển của bàn phím máy tính

Song song cùng sự phát triển của máy đánh chữ vào những năm 1950 đến 1970 thì máy tính bắt đầu xuất hiện và ngày càng được đón nhận nồng nhiệt bởi những đặc tính hiệu quả và tương lai sáng lạn mà công nghệ mới này mang lại. Thời đại của máy tính bắt đầu từ đây. Anh em cùng lướt qua một số cột mốc đáng nghi nhớ trong công nghệ máy tính nhé: PaperTape

Những chiếc máy tính đầu tiên

Năm 1949: máy tính đầu tiên ENIAC ra đời, và được công nghệ teletype được sử dụng để nhập liệu. Máy tính teletype và ENIAC sử dụng thẻ chèn vào, một công cụ gọi là keypunches sẽ được đục vào thẻ theo phím được nhấn từ teletype. Sau khi các thẻ máy tính được đục lên, chúng sẽ được đưa đến một đầu đọc thẻ để phân tích và làm ra dạng dữ liệu đưa vào máy tính vận hành. Năm 1964: Bell Labs và MIT đã tạo ra máy tính MULTICS, vận hành với dạng một hệ thống nhiều người dùng chia sẻ với VDT, một thiết bị đầu vào video. Text được nhìn thấy ngay lập tức trên màn hình sau khi gõ trên bàn phím. Công nghệ vượt bậc này đã khiến cho việc truyền lệnh, điều khiển vận hành máy tính hiệu quả hơn rất nhiều so với phương pháp teletype trước đó. Đây cũng là thời điểm phát minh Bàn phím gõ chữ và phát minh về máy tính gặp nhau sau một thời gian song song không cùng điểm chung. Năm 1970: Bàn phím đầu tiên được bán ra thị trường với hình thù là một khối kim loại và dây nhợ trông khá lỉnh kỉnh và cồng kềnh, chỉ chuyên dành cho các kỹ sư máy tính và lập trình viên, không có vẻ gì là khả dụng với người dùng bình thường.

Những chiếc bàn phím máy tính đúng nghĩa đầu tiên

Vào giữa những năm 1970: Imsai và Altair đã tạo ra những chiếc PC nhỏ đầu tiên cho người dùng cá nhân (thường được gọi là máy S100). Thế hệ PC cá nhân này được chế tạo dạng từng mảnh và cung cấp các chức năng căn bản của một máy tính như nhập liệu xử lý thông tin. S100 không có ổ cứng đĩa mềm, không có cách nào để lưu trữ thông tin và cũng không thể kết nối với bàn phím gõ chữ rời bên ngoài. Điều này làm cho thị trường gần như đã có một thời gian không chấp nhận sản phẩm S100 này vì quá nhiều bất tiện và không thực sự hữu dụng. Cuối năm 1970: Apple, Radio Shack và Commodore là ba hãng máy tính đã thật sự thay đổi vision của mình, và bắt đầu tiến hành nghiên cứu sản xuất trên giả định rằng: mỗi một PC phải luôn đi kèm với một bàn phím, và các bàn phím chính là thiết bị đầu vào tiêu chuẩn cần có cho một máy tính. Năm 1981: IBM đã ra đời PC đầu tiên mang nhãn chính hãng. Bàn phím cơ IBM Model M

Cột mốc lịch sử: IBM Model M

Năm 1986: chiếc PC IBM đầu tiên này chính thức được trang bị đi cùng bàn phím IBM Model M. Bàn phím này là một phát minh ngoạn mục và mang lại thành công rực rỡ bắt đầu thời hoàng kim cho hãng. Model M là bàn phím cơ, dùng chất liệu cao cấp, phản hồi xúc giác cực kỳ tinh tế, quan trọng nhất là dễ sử dụng nhất, giúp người dùng không cần phải chuyển qua lại với máy đánh chữ khi muốn nhập liệu vào máy tính hay không đòi hỏi phải tự build bàn phím riêng tại nhà. Điểm hạn chế lớn nhất của Model M là các phím Shift, Enter quá nhỏ so với các phím còn lại gây trở ngại khi bấm. Màu sắc cũng khá đơn điệu khi chỉ có hai tone xám và be. Phiên bản màu đen được ra đời vào 1980 mở ra thêm một lựa chọn kinh điển cho người dùng bàn phím cơ.

Sự cách mạng bàn phím vừa “tiến” vừa “lùi”

Từ đầu những năm 1990: công tắc màng ra đời (membrance swiwch), mở ra một cuộc cách mạng mới cho bàn phím và bắt đầu thay thế một số lượng đáng kể công tắc cơ đang có vào thời điểm đó. Với ưu điểm gọn nhẹ, dễ sản xuất, giá thành rẻ hơn, tương thích với các loại máy tính xách tay, công tắc màng được nhiều hãng đưa vào sản xuất. Nhưng chính việc chia sẻ thị phần này đã khiến cho các bàn phím dùng công tắc màng ngày nay kém chất lượng và ít tinh tế hơn so với thời trước. Dân trong ngành hay gọi các bàn phím công tắc màng là dạng mì ăn liền: nhanh gọn nhẹ nhưng hời hợt độ bền kém và không mang lại cảm xúc đặc biệt nào nơi người dùng. Ngày nay chúng ta có rất nhiều loại bàn phím cơ/ bàn phím màng với đầy đủ thiết kế, tính năn, màu sắc, kích cỡ cho anh em tha hồ chọn lựa. Nếu không có IBM Model M đơn giản năm nào hay xa hơn, không có chiếc máy đánh chữ hình dáng máy may cồng kềnh của Rammington thì thế hệ ngày nay hẳn chúng mình đã ở một nơi khác, nơi đó có khi không có bàn phím máy tính.

3. Bố cục bàn phím – Lịch sử và sự phát triển

Nhắc đến bố cục bàn phím, ai cũng biết đến QWERTY, nhưng ít người biết rằng ngoài ra chúng ta đã từng có một vài bố cục bàn phím dạng khác.

Nói riêng về bố cục bàn phím QWERTY

QWERTY Đây là bố cục bàn phím được dùng nhiều nhất từ khi ra đời và cho đến tận hôm nay. QWERTY là tên được đặt từ các chữ cái của hàng ký tự đầu tiên từ trái qua. Christopher Latham Sholes và Carlos Glidden là hai người tạo ra máy đánh chữ đầu tiên dùng bố cục QWERTY vào năm 1874. Qua một thời gian phát triển dài và nhiều thay đổi, nhưng bố cục QWERTY hầu như vẫn giữ nguyên được các nguyên tắc căn bản đầy hiệu quả. Một vài điểm khác biệt nhỏ giữa phiên bản ngày xưa và bây giờ là: phiên bản cũ không có phím 1 nên cũng không có luôn phím !. Hồi đó thay vì gõ phím 1 người ta sẽ gõ ký tự L chữ thường. Và khi cần dùng phím ! họ sẽ gõ dấu chấm (.), nhấn backspace sau đó nhập dấu sao đơn ()* . Trong thời gian phát triển QWERTY có hàng loạt những nhu cầu phát sinh, dẫn đến hàng loạt các thay đổi nhỏ như có thể phím Shift, có thêm phím Caps Lock.

Sự thật thú vị

Ít ai biết một điều thú vị về bố cục QWERTY là: bố cục này ra đời nhằm mục đích quan trọng: giảm tốc độ gõ máy của người dùng. Trong thực tế, vào thời điểm trước khi QWERTY ra đời, người dùng máy tính thường có thói quen gõ rất nhanh, tới độ lỗi kẹt ký tự diễn ra thường xuyên đến mức người ta ngán ngẩm với việc dùng bàn phím nhập liệu. QWERTY ra đời với các chữ cái được dùng phổ biến nhất sẽ nằm rải rác ở các vị trí ngón tay khác nhau, tránh việc tập trung gõ, và tương tự các chữ cái ít dùng hơn sẽ nằm trong các khu vực chính của bố cục.

Giảm tốc độ gõ phím nhưng tốt cho sức khỏe

Câu hỏi đặt ra là: QWERTY làm khó vậy mà tại sao người ta vẫn dùng nó trong hàng thập kỷ tới tận bây giờ? Câu trả lời đơn giản là vì QWERT ra đời từ quá sớm trước cả khi đại chúng có cơ hội tiếp xúc với máy tính và bàn phím. Lý do thứ hai là vì đã qua quá trình nghiên cứu, xác định các lỗi khi đánh máy nên tất cả các nhà sản xuất bàn phím và máy tính đều chọn bố cục QWERTY cho sản phẩm xuất xưởng của mình, khi đến tay người dùng mặc nhiên đều là bố cục này. Đặc biệt là nhà tiên phong IBM, trong quá trình nghiên cứu công thái học đã đưa ra kết luận khả quan về bố cục QWERTY trong việc giảm lỗi đánh máy cũng như duy trì hiệu suất làm việc đáng kể và đảm bảo sức khỏe cho bàn tay người dùng, hãng đã tiên phong dùng bố cục này và tạo hiệu ứng lan tỏa cực mạnh đến các hãng sản xuất khác về sau.

Bố cục bàn phím DVORAK

DVORAK layout Nếu QWERTY hướng đến công thái học và ra đời nhằm giảm tốc độ gõ chữ của người dùng thì DVORAK ngược lại, tăng tốc độ gõ nhiều nhất có thể với việc bày trí các ký tự thường dùng ở hàng cuối cùng, nơi lực gõ của bàn tay là nhanh và nhạy nhất. Bố cục DVORAK được giới thiệu bởi August Dvorak vào 1936. Bố cục này nhanh chóng được đánh giá cao, và Dvorak còn đưa ra luôn hai phiên bản đi kèm mang tính nhân văn dành cho người dùng chỉ có một tay trái và chỉ có một tay phải. Tuy Dvorak không qua mặt được QWERTY về độ phổ biến, thân thiện người dùng và sự ưu ái của các hãng sản xuất, nhưng Dvorak vẫn còn lưu giữ cho mình một giá trị nhất định với những người dùng máy tính lâu năm và đam mê khám phá. Vậy mới thấm câu “Sức mạnh của người đi đầu”, dù là sai thì đi đầu vẫn tốt nhất.

Bố cục bàn phím ColeMAk

ColeMAk Layout Đây là loại bố cục nằm giữa hai kiểu trên. Dành cho một số cá nhân không hào hứng với sự kiềm hãm tốc độ của QWERTY nhưng quá nản với việc phải làm quen lại từ đầu khi dùng DVORAK, thì COLEMAK là sự lựa chọn hợp tình hợp lý. Bố cục này chỉ có 17 phím khác vị trí với QWERTY nên dễ học dễ thay đổi. Nhà sản xuất Shai Coleman đã vô cùng quyết tâm và khẳng định trong vài thập kỷ nữa, ColeMAk sẽ thay thế dần hai bố cục QWERTY và DVORAK vốn đã trở nên khá lỗi thời, nhưng ai biết được tương lai sẽ thế nào, mọi người đều nên có hy vọng của riêng mình. Anh em thấy thế nào, con đường đi qua quả là dài đúng không? Phía trước tương lai của máy tính nói chung và bàn phím cơ nói riêng vẫn còn rất nhiều điều không ai dự đoán được. Hôm nay của chúng ta rồi cũng sẽ qua, hãy cứ dùng bàn phím cơ và tin rằng chúng ta là một phần của lịch sử!